trần thủ độ và trần hưng đạo
Nghị luận văn học bài Hịch Tướng Sĩ của Trần Quốc Tuấn mẫu 2. Trần Quốc Tuấn (1231 - 1300) - người đã được vua Trần giao cho thống lĩnh quân đội, đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên thắng lợi vẻ vang. Người nổi tiếng là biết trọng kẻ sĩ thu
[ YU TANG - BIGC THĂNG LONG, 222 TRẦN DUY HƯNG ] ⭐️8/10 💵40.000đ - 50.000đ ⏰9:00 - 23:00 ️Passwifi : 19006622 📡Wifi : Tốc độ truy cập trung bình
Theo tương truyền, khi Đức Thánh Trần qua đời, để tránh sự trả thù của quân Nguyên, ông đã truyền lệnh lập mộ giả ở vườn An Lạc, Bảo Lộc. Tuy trên mộ có ghi tên là Hưng Đạo Đại Vương, nhưng thực chất đó lại là mộ của một viên bộ tướng. Khi Đức Thánh
Bản đồ. Địa chỉ: 261 Đường Trần Hưng Đạo, Phường Cô Giang, Quận 1, Hồ Chí Minh. Bạn đang xem nội dung tin đăng: "Phòng trọ quận 1 Trần Hưng Đạo ful nội thất 21m2 chỉ từ 4 triệu 5 - Mã tin: 589474". Mọi thông tin liên quan đến tin đăng này chỉ mang tính chất tham khảo.
Đoạn cầu dẫn phía Hoàn Kiếm có quy mô 1 làn xe đi thẳng vào đường Trần Hưng Đạo và 4 làn xe rẽ vào đường đê Trần Khánh Dư; đoạn cầu dẫn phía Long Biên có quy mô 6 làn xe. Tổng vốn đầu tư dự án cầu Trần Hưng Đạo dự kiến hơn 8.900 tỉ đồng, trong đó vốn nhà nước chiếm 50%, vốn nhà đầu tư BOT chiếm 50%.Tiến độ thực hiện dự án từ năm 2022-2025.
Programme Palais Des Rencontres Chateau Thierry. Trần Hưng Đạo chữ Hán陳興道; 1228 – 1300, tên thật là Trần Quốc Tuấn chữ Hán陳國峻, tước hiệu Hưng Đạo đại vương, là một nhà chính trị, nhà quân sự, tôn thất hoàng gia Đại Việt thời Trần. Sau khi qua đời dân gian đã suy tôn ông thành Đức Thánh Trần 德聖陳 hay còn gọi là Cửu Thiên Vũ Đế 九天武帝. Ông được biết đến trong lịch sử Việt Nam với việc chỉ huy quân đội đánh tan hai cuộc xâm lược của quân Nguyên – Mông năm 1285 và năm 1288. Phần lớn tài liệu nghiên cứu lịch sử và cả dân gian thời sau thường dùng tên gọi vắn tắt là "Trần Hưng Đạo" thay cho cách gọi đầy đủ là "Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn", vốn bao gồm tước hiệu được sắc phong cho ông. Ông là 1 trong 14 vị anh hùng tiêu biểu của dân tộc Việt Nam.[1] Là con của thân vương An Sinh vương Trần Liễu và là cháu nội của Trần Thái Tổ, Trần Hưng Đạo có mối quan hệ mật thiết với hoàng tộc họ Trần và vua Trần Nhân Tông gọi ông bằng bác. Năm 1257, ông được vua Trần Thái Tông phong làm đại tướng chỉ huy các lực lượng ở biên giới đánh quân Mông Cổ xâm lược. Sau đó, ông lui về thái ấp ở Vạn Kiếp. Đến tháng 10 âm lịch năm 1283, nhà Nguyên sau khi Mông Cổ thống nhất Trung Hoa đe dọa đánh Đại Việt lần hai, Hưng Đạo vương được Thượng hoàng Trần Thánh Tông, và vua Trần Nhân Tông lần lượt là em họ và cháu họ ông phong làm Quốc công tiết chế, thống lĩnh quân đội cả nước. Trên cương vị này, năm 1285, ông lãnh đạo quân sĩ chặn đứng đội quân xâm lược do hoàng tử thứ chín Thoát Hoan. Sau những thất bại ban đầu, quân dân Việt dưới sự lãnh đạo của hai vua Trần, Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải và Hưng Đạo vương phản công mạnh mẽ, phá tan quân Nguyên trong các trận Hàm Tử, Chương Dương, Trường Yên, Vạn Kiếp,... đánh đuổi hoàn toàn quân Nguyên khỏi biên giới. Năm 1288, quân Nguyên trở lại xâm lược Đại Việt lần thứ ba. Khi tiếp tục được phong Quốc công tiết chế; Hưng Đạo vương khẳng định với vua Trần Nhân Tông "Năm nay đánh giặc nhàn". Ông đã áp dụng thành công chiến thuật của Ngô Quyền, đánh bại hoàn toàn thủy quân nhà Nguyên do các tướng Phàn Tiếp và Ô Mã Nhi chỉ huy trong trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng, buộc quân Nguyên lại phải rút về nước và vĩnh viễn từ bỏ tham vọng thôn tính phương Nam của họ. Tháng 4 âm lịch năm 1289, Trần Nhân Tông chính thức gia phong ông làm "Đại vương" dù chức quyền đứng đầu triều đình khi đó vẫn thuộc về Thượng tướng Thái sư Chiêu Minh Đại vương Trần Quang Khải. Sau đó, ông lui về Vạn Kiếp đến khi mất năm 1300. Trước lúc qua đời, ông khuyên Trần Anh Tông "Phải khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc".[2] Ngoài ra, ông còn để lại các tác phẩm kinh điển như Hịch tướng sĩ, Binh thư yếu lược và Vạn Kiếp tông bí truyền thư đặt nền móng cho nghệ thuật quân sự Việt Nam kể từ thời Trần đến ngày nay.
𝑪𝒖̛̉𝒂 𝒉𝒂̀𝒏𝒈 𝑸 𝑰 𝑵 𝑵 𝒀26A Trần Hưng Đạo, Phường Hiệp Phú, TP. Thủ Đức, Hồ Chí Minh Link Googlemap 09 3883 1881
Suốt hơn 2500 năm đó, Việt Nam cũng đã trải qua hàng nghìn cuộc đấu chống giặc ngoại xâm lớn nhỏ khác nhau và cũng đã xuất hiện ko biết bao nhiêu những vị tướng tài kiệt xuất đứng ra bảo vệ bờ cõi. Với đó, chắc hẳn không thể nào không nhắc tới Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, một vị tướng tài kiệt xuất từ thời nhà Trần đã từng 3 lần chống lại quân Mông Nguyên bảo vệ đất nước. Ông cũng là vị tướng duy nhất trong lịch sử Việt được phong thánh. Vậy vì sao Trần Hưng Đạo được phong thánh và là vị tướng duy nhất được phong thánh trong khi trong lịch sử Việt Nam cũng không vô kể những vị tướng tài? Cùng Đồ Đồng Dung Quang Hà tìm hiểu và trả lời thắc mắc qua bài viết sau đây nhé!Tiểu sử cuộc đời Hưng Đạo Vương Trần Quốc TuấnTrần Hưng Đạo tên thật là Trần Quốc Tuấn, tước hiệu là Hưng Đạo Đại Vương. Ông sinh năm 1226 tại kinh đô Thăng Long, nguyên quán ở Phủ Thiên Trường nay thuộc xã Lộc Vượng, TP. Nam Định và mất vào năm 1300 tại Vạn Kiếp. Ông là con trai của Trần Liễu và là cháu nội từ Trần Thái Quốc Tuấn ra đời khi họ nhà Trần vừa mới thay thế nhà Lý khiến cho vua một đất nước loạn ly, đói kém. Lúc này, Trần Thủ Độ, một tôn thất tài tình đã xếp đặt bày mưu để giữ cho thế nước chông chênh thành bền vững. Bấy giờ, Trần Cảnh tức vua nhà Trần thời bấy giờ còn nhỏ chỉ mới 11 tuổi, vợ là Lý Chiêu Hoàng vị vua chung cục từ dòng họ Lý. Vì nhường nhịn ngôi cho chồng mà trăm họ và tôn thất nhà Lý dị nghị nhà Trần cướp ngôi. Trần Thủ Độ vô cùng lo giờ, Trần Liễu cha từ phía Trần Quốc Tuấn lấy công chúa Thuận Thiên chị gái từ phía Lý Chiêu Hoàng đang với thai. Trần Thủ Độ ép Liễu phải dường vợ cho Vua để chắc có một đứa con cho Trần Cảnh. Trần Liễu nổi loạn nhưng đã được Trần Thủ Độ dẹp tan và tha chết. Song điều này ko dẹp nổi lòng thù hận từ vậy mà Ông đã tìm thầy giỏi dạy cho con trai mình thành bậc văn võ toàn tài, ký thác cho con tức Trần Quốc Tuấn để con thay cha trả mối thù sâu nặng này. Với bé, Trần Quốc Tuấn đã là một bậc kỳ tài. Lớn lên, Ông càng tỏ ra thông minh xuất chúng hơn người, văn võ song toàn. Bấy giờ quân Nguyên đang tiến đánh nước ta, Trần Quốc Tuấn đã bắt tay khiến hòa với Trần Quang Khải con của Trần Cảnh để cùng nhau đánh giặc ngoại, bảo vệ đất đáp vì sao Trần Hưng Đạo được phong thánh?Dưới sự lãnh đạo từ phía Trần Hưng Đạo, quân và dân nhà Trần đã vượt qua vô vàn thử thách, lấy “ít địch nhiều”, lấy “yếu thắng mạnh” 3 lần đánh thắng quân Nguyên Mông xâm lược hùng ra, ông còn là một nhà văn với tác phẩm hịch tướng sĩ nổi tiếng vang lừng đất nước. Ông cũng đã soạn 2 bộ sách để dạy các tướng soái đương thời cầm quân đánh giặc đó là “binh thư yếu lược” và “vạn kiếp tông bí truyền thư” đúc kết đa dạng kinh nghiệm quý báu về việc đánh giặc, giữ nước để truyền lại cho hậu những chiến công vang dội từ phía mình, Trần Quốc Tuấn là một trong những đại diện tiêu biểu của 14 vị anh hùng tiêu biểu dân tộc Việt Nam. Ông đều được trần giới suy tôn là Đức Thánh Trần và là vị tướng duy nhất được phong thánh tại Việt nay, để ghi nhớ công ơn và sự hy sinh to lớn của ông, phổ biến người thường đặt những bức tượng Trần Quốc Tuấn bằng đồng để thờ cúng, trang trí để cầu mong gia đình được bình sao Trần Hưng Đạo được phong thánh?Trần Hưng Đạo là vị tướng duy nhất được phong thánh vậy vì sao Trần Hưng Đạo được phong thánh? Ông là người như thế nào? Dưới đây là một số nguyên nhân sở hữu thể giảng giải cho việc vì sao Trần Hưng Đạo được phong thánh và là vị tướng duy nhất được phong thánh trong lịch một vị tướng tài ba kiệt xuất, nhà chính trị lỗi lạcHưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là một trong những vị tướng tài tình kiệt xuất trong lịch sử Việt Nam. Ông không chỉ là một vị tướng giỏi cầm quân mà còn là một nhà văn kiệt xuất, là biểu trưng từ một vị hiền tài văn võ song Nguyên – Mông vốn là một đội quân lớn mạnh, Trần Quốc Tuấn cũng không sợ hãi mà hơn hết chính ông lại là người cầm quân dẫn dân 3 lần đương đầu và đánh bại quân Nguyên Mông bảo vệ lãnh thổ dân Trần Hưng Đạo cao 1m27 khảm tam khí tinh xảo>> Xem ngay Những lưu ý khi mua và sử dụng tượng Đức Thánh TrầnÔng không chỉ bảo vệ tổ quốc mà còn đã để lại cho dân tộc ta những tư tưởng chính trị tiến bộ cùng với tài thao lược bất hủ với 2 cuốn binh thư “binh thư yếu lược” và “vạn kiếp tông bí truyền thư” được lưu truyền của đời này sang đời khác, giúp con cháu đời sau với thể học theo tài thao lược từ phía vị tướng lĩnh luôn có lòng thương dân, yêu nướcMột trong những lý do khác để trả lời cho câu hỏi vì sao Trần Hưng Đạo được phong thánh đó là ông là một bậc tướng tài vừa với đủ tài sở hữu đủ đức, có lòng thương dân và yêu nước. Không chỉ giỏi việc cầm quân, ông còn là người rất biết giữ chữ tín, cẩn trọng trong từng lời nói và biết suy nghĩ cho cả đại đồng Trần Quốc Tuấn dát vàng 9999 tinh xảo>> Xem chi tiết sản phẩm Tượng đồng Trần Quốc Tuấn dát vàng 9999 tinh xảoÔng là một vị tướng nhân bởi ông thương dân, thương quân, là người soi đường chỉ cho quân dân con đường sáng. Ông là một vị tướng nghĩa bởi ông xem việc phải hơn điều lợi, Là một vị tướng chí bởi ông biết lẽ đời sẽ dẫn mình tới nơi đâu. Là một vị tướng dũng bởi ông sẵn sàng đứng dậy cầm quân đánh giặc dẫu biết quân giặc vô cùng to mạnh. Và là một vị tướng tín bởi bởi ông luôn minh bạch, rõ ràng trong hầu hết chuyện, toàn bộ việc, luôn thanh minh cho quân quân nhân biết theo ông sẽ được gì, và trái lời ông sẽ nhận hậu quả ra đã từng nói “ Bệ hạ hãy chém đầu thần trước, rồi hãy hàng”. Câu nói này chính là minh chứng rõ nhất về khí phách từ ông, cũng là khí phách của nước Đại Việt, là đỉnh cao của lòng yêu nước khiến rực sáng dân tộc tới tận ngàn vị tướng luôn đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầuKhông chỉ tài ba, ông còn lưu được tiếng thơm muôn thuở bởi tinh thần trung trinh ái quốc, biết đặt nợ nước lên trên cả thù được thân sinh mình tức Trần Liễu gửi gắm mối thù cướp vợ và từng trăn trối cho ông rằng “Con phải trả thù cho cha, rồi nhân đó, đoạt luôn ngôi báu thì cha tại dưới suối vàng mới với thể thanh thản im nghỉ được”. Ông tuy nhớ lời trăn trối từ phía cha nhưng vốn chưa bao giờ với ý định thực hiện. Trước cường địch, ông còn ra mặt đứng ra chủ động giải mối hận thù giữa hai gia đình để đồng tâm đánh thắng quân Nguyên hung Trần Quốc Tuấn đồng đỏ khảm tam khí đẹp, độc đáo>> Xem chi tiết sản phẩm Tượng Trần Quốc Tuấn đồng đỏ khảm tam khí đẹp, độc đáoTrong chiến tranh, ông vẫn luôn hộ giá bên vua, tay chỉ cầm mỗi cây gậy bịt sắt, những trong ngoại trừ vẫn với lời dị nghị sợ ông sát vua. Sau này ông cũng bỏ luôn cây gậy bịt sắt và chỉ chống gậy ko lúc kề cận với vua. Từ đó sự nghi kỵ cũng dần chấm dứt. Ông luôn chú ý tới từng việc nhỏ để tránh hiềm nghi, yên lòng quan, yên ổn lòng dân, đoàn kết mọi người vì nghĩa to dân tộc. Một tấm lòng son sắt, hiếu trung vì vua, vì chí, Trần Hưng Đạo còn là một người với thể biến quân thù thành bạn, trừng phạt chính con trai mình vì tội bất hiếu với vua, bất trung với cách con người Trần Quốc TuấnHưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn ko chỉ biểu lộ mình là người giỏi bày binh, bố trận mà còn vô cùng biết bí quyết đối nhân xử những đối xử với vua toàn tâm, toàn ý với nước mà ông còn siêu rộng lượng với những người lầm đường lạc lối. Khi toàn thắng quay về, ông đã xin vua đốt bỏ hết những hồ sơ của những kẻ đầu hàng giặc, những kẻ phản nghịch để xóa hết thù hận, tránh cho kẻ lầm đường mang cảm giác tội lỗi hay bị cùng đường sẽ sinh loạn. Đó là tấm lòng khoan dung đại lượng từ một bậc anh hùng và là một bước nhìn xa từ phía vị quân Trần Quốc Tuấn bằng đồng vàng mộc đẹpCuộc đời ông chính là một bản hùng ca vang dội. Ông không vì thù nhà mà bỏ rơi quyền lợi của đất nước, của nhân dân mà luôn đặt nó lên hàng đầu. Ông là vị anh hùng kiệt xuất vừa có đức vừa có tài, văn võ song toàn. Đây cũng chính là những lí do có thể giải thích cho việc vì sao Trần Hưng Đạo được phong thánh và lại được người đời tôn sùng như tượng Trần Hưng Đạo trong nhà có ý nghĩa gì?Ngày nay, để tưởng nhớ công ơn to lớn của ông mà những bức tượng đồng về ông thường được sử dụng phổ biến trong cuộc sống cũng như trang trí nhà cửa. Đặt tượng ông trong nhà đó không chỉ là sự biết ơn, cảm kích của người đời sau đối với công ơn của ông mà còn là đạo lý “uống nước nhớ nguồn” và là cách để răn dạy con cháu sau này có thể phát triển tốt phong thủy, tượng danh nhân Trần Quốc Tuấn cũng là một vật phẩm phong thủy mang lại hiệu quả cao trong trấn trạch, trừ tà, xua đuổi điềm dữ, các vận khí xấu. Đặt tượng Trần Quốc Tuấn trong nhà sẽ giúp bảo vệ gia đạo được bình an, may mắn cũng như mang lại thuận lợi về mặt đất cát, gia trạch, tránh được các tai ương, vận xấu và những bệnh tật không mong Trần Quốc Tuấn dát vàng 9999 tinh xảoNgoài ra, bày tượng Trần Hưng Đạo trong nhà còn có đến sự thuận lợi, may mắn về đường sự nghiệp đặc biệt có lợi cho những người làm ăn marketing buôn bán. Dáng vẻ uy nghiêm từ tượng sẽ mang gia chủ tránh được những lời gièm pha, đố kỵ từ phía kẻ tiểu nhân. Với đó thu hút phổ biến vượng khí, tài lộc cho gia chủ. Ngày nay, gia chủ cũng có thể tìm thấy rộng rãi mẫu tượng Trần Quốc Tuấn được chế tạo dưới nhiều mẫu mã, kiểu dáng khác nhau như tượng đồng, tượng gỗ,…. tuy nhiên những mẫu tượng đồng vẫn luôn được phổ biến gia chủ phù hợp chọn lựa nhất. Trên đây là những chia sẻ từ phía Đồ Đồng Dung Quang Hà xung vòng quanh thắc mắc vì sao Trần Hưng Đạo được phong thánh. Hy vong qua bài viết này, gia chủ sẽ với thể tìm thấy được những ý nghĩa trong việc sử dụng tượng Trần Hưng Đạo.>> Xem ngay Những mẫu tượng Trần Quốc Tuấn bằng đồng đẹp, chất lượng và được ưa thích nhất hiện nay
Trong việc đánh giá các nhân vật lịch sử, thường có một câu hỏi tưởng chừng đơn giản mà thật sự không đơn giản chút nào Có đáng được xem là anh hùng không? Bởi trong thực tế, có không ít nhân vật công tội khó phân. Thêm vào đó, việc đánh giá lại còn tùy thuộc vào từng quan điểm, từng thời đại. Mà cái việc “đời luận anh hùng” này lại lắm phần phức tạp. Trần Thủ Độ là một nhân vật lịch sử điển hình cho trường hợp này. Gia đình ngư phủ đổi đờiTrần Thủ Độ sinh năm 1194, mất năm 1264. Sử cũ không thấy chép về cha mẹ của ông, và hiện tại đây vẫn còn là một điểm mờ của làng sử học Việt Nam. Người ta chỉ biết rằng, Trần Thủ Độ từ nhỏ đã được người bác tên là Trần Lý nuôi là vào đầu thế kỷ 13, vua Cao Tông nhà Lý ăn chơi vô độ, khiến loạn lạc nổi lên khắp nơi và dẫn đến cái loạn của Quách Bốc. Cao Tông bèn dẫn thái tử Sảm bỏ chạy khỏi kinh thành Thăng Long. Sau đó, thái tử Sảm chạy về Hải Ấp, làng Lưu Gia và được gia đình Trần Lý che chở. Gia đình Trần Lý làm nghề chài lưới, nhưng rất giàu có, và nhân buổi loạn lạc cũng tuyển mộ được binh lính riêng. Chính gia đình Trần Lý đã về kinh dẹp loạn, đưa cha con Cao Tông trở lại Thăng năm 1210, Cao Tông mất, trị vì được 35 năm, hưởng dương 38 tuổi. Thái tử Sảm lên ngôi lấy hiệu Huệ Tông 1211-1225. Khi tá túc nhà Trần Lý, Huệ Tông đã kết hôn với con gái của Trần Lý là Trần Thị Dung. Sau khi lên ngôi, Huệ Tông cho rước Trần thị về làm Nguyên phi, và sau đó là hoàng hậu. Bấy giờ Trần Lý đã chết, nên Huệ Tông bèn phong cho con trai thứ của Trần Lý là Trần Tự Khánh làm Chương Tín hầu, và sau đó là Phụ chính. Anh trai Trần Tự Khánh là Trần Thừa cũng được phong làm Nội thị Phán thời gian sau, Huệ Tông phải bệnh, thỉnh thoảng lên cơn điên dại. Thế là triều chính hoàn toàn do anh em Trần Tự Khánh nắm cả. Năm 1228, Trần Tự Khánh mất. Huệ Tông bèn phong cho Trần Thừa làm Phụ quốc Thái úy. Năm sau, lại phong cho Trần Thủ Độ làm Điện tiền chỉ huy sứ. Như vậy, Thủ Độ là em họ của Hoàng hậu và Phụ quốc Thái úy. Quyền hành coi như về tay họ Trần cả, chỉ còn việc chính thức thiết lập nhà Trần nữa là cũ chép rằng, vào năm 1224, Trần Thủ Độ đã ép Huệ Tông nhường ngôi cho con gái mới lên 7 tuổi là Chiêu Thánh Công Chúa, tức Lý Chiêu Hoàng. Chị của Lý Chiêu Hoàng là Thuận Thiên Công Chúa thì được Trần Thủ Độ sắp đặt kết hôn với con trai lớn của Trần Thừa là Trần Liễu. Em trai Trần Liễu là Trần Cảnh, cũng vừa 7 tuổi kết hôn với Lý Chiêu Hoàng. Năm 1225, Trần Thủ Độ ép Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh. Thế là, Trần Cảnh lên ngôi lấy hiệu là Thái Tông, bắt đầu triều đại nhà Trần. Triều Lý do Lý Công Uẩn lập nên đến đây là dứt, tồn tại được 216 năm, truyền ngôi được 9 giờ, Thái Tông mới có 8 tuổi, nên mọi việc điều do chú họ là Trần Thủ Độ nắm cả. Vừa lên ngôi, Thái Tông đã ban chiếu phong Trần Thủ Độ làm Thái Sư Thống Quốc nắm hết binh quyền. Đối với một ông vua 8 tuổi, thì rõ ràng việc gia phong này là do chủ ý Trần Thủ Độ củng cố quyền lực nhà Trần, Thủ Độ rắp tâm diệt cỏ tận gốc đối với tôn thất nhà Lý. Năm 1225, Thủ Độ ép Huệ Tông phải tự tử. Sử cũ còn chép, năm 1232, nhân tôn thất nhà Lý về tế lễ, Thủ Độ ngầm sai người đào hầm đặt bẫy chôn sống tất cả. Sau đó, để tuyệt được hậu họa, Thủ Độ còn lấy cớ là tên của tiên tổ Triều Trần là Trần Lý, vì thế phải kiên húy chữ Lý, và ra lệnh người họ Lý trong nước phải đổi thành họ việc trong nhà, sau khi bức tử Huệ Tông, Thủ Độ ép vua ban chiếu giáng thái hậu Trần Thị Dung xuống làm Thiên Cực Công Chúa và gả cho Trần Thủ Độ. Lý Chiêu Hoàng lấy Thái Tông Trần Cảnh đã 12 năm mà chưa sinh con, Thủ Độ bèn ép Thái Tông giáng xuống làm Công chúa, rồi đem chị của Lý Chiêu Hoàng là Thuận Thiên công chúa, gả cho Thái Tông làm Hoàng hậu. Khi ấy Thuận Thiên Công chúa là vợ của Trần Liễu, và đã có thai với Trần Liễu 3 và tội ? Trần Thủ Độ nắm quyền hành nhà Lý và là linh hồn của chính quyền nhà Trần cho đến khi ông mất vào năm 1264, tức trên 40 năm điều hành đất nước. Đánh giá về Trần Thủ Độ, các sử gia Nho giáo đã không tiếc lời chỉ việc Thủ Độ đổi vợ thay chồng trong tôn thất nhà Trần như đã nêu trên, Ngô Thời Sĩ trong Đại Việt Tiêu Án đã thốt lên “…con nhà chài lưới chả biết lễ nghĩa là gì, tập tục loạn luân như thế…”. Sử gia Phan Phu Tiên nhận định Tam cương ngũ thường, đó là luân lý trọng đại của loài người. Thái Tông là vua sáng nghiệp, đáng nên lập ra phép tốt để cho đời sau theo, thế mà lại nghe mưu gian tà của Thủ Độ, cướp vợ anh làm vợ mình, như thế chả phải tự mình làm trái luân thường để mở đầu cái mối dâm loạn đấy ư?”. Sử gia Trần Trọng Kim thì cho rằng “Làm loạn nhân luân như thế thì từ thượng cổ mới có một”.Còn việc Trần Thủ Độ dùng hôn nhân cướp ngôi nhà Lý, thì các sử gia Nho Giáo cũng phê phán nặng nề. Chẳng hạn như các sử gia nhà Nguyễn đã phê trong bộ Việt Sử Thông Giám Cương Mục rằng “Huống chi làm những nết xấu như chó lợn, dạ độc như hùm beo, dựng nước mà như thế thì làm thế nào mà lâu dài được?...Thực là việc lạ, suốt nghìn xưa chưa hề có”.Thế nhưng, ngoài việc này ra, nếu nhìn vào giai đoạn sau khi cướp ngôi nhà Lý, thì Trần Thủ Độ lại là người có công lớn không chỉ với nhà Trần mà còn với cả non sông. Như đã nói, ông nắm quyền lèo lái triều đình nhà Trần đến khi mất vào năm 1264. Trong giai đoạn đó, một loạt công việc từ kinh tế, chính trị, quốc phòng…đã được thực nhìn nhận một cách khách quan rằng, kể từ thời Cao Tông nhà Lý, triều đình bắt đầu lâm cảnh suy vi, vua mãi ăn chơi bỏ bê chính sự, loạn lạc khắp nơi nổi lên, kinh tế suy sụp. Sau khi nhà Trần được lập, vua Trần Thái Tông chỉ là cậu bé chưa đầy 10 tuổi. Chính Trần Thủ Độ đã ngược xuôi dẹp nội loạn, đưa đất nước từ loạn đến trị. Ông cũng đã lèo lái hệ thống chính quyền khôi phục kinh tế, định lại thuế khóa, xây dựng đê điều, mở rộng chế độ tư hữu ruộng đất, xây dựng và củng cố quân đội, chăm lo học hành…Chính vào giai đoạn này, nhà Trần đã mở khoa thi Thái học sinh Tiến sĩ đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Ngoài việc lập Quốc học viện để giảng Tứ thư Ngũ kinh, Trần Thủ Độ còn cho lập giảng võ đường để luyện tập võ nghệ. Sử gia Trần Trọng Kim là người phê phán gay gắt chuyện Trần Thủ Độ soán ngôi nhà Lý, cũng thừa nhận rằng “Thủ Độ một tay cáng đáng bao nhiêu trọng sự, giúp Thái Tông bình phục được giặc giã trong nước và chỉnh đốn lại mọi việc, làm cho nước Nam ta bấy giờ được cường thịnh, ngày sau có thể chống cự được với Mông Cổ, khỏi phải làm nô lệ những kẻ hùng cường”.Một công lớn nữa của Trần Thủ Độ đó là ông đã đóng vai trò quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Nguyên-Mông lần thứ nhất vào năm 1258. Trần Thủ Độ với vai trò là người nắm đại quyền ở triều chính, đã xúc tiến việc củng cố quân đội. Khi giặc Nguyên-Mông tràn sang, quân đội nước Nam khi ấy có đến 20 vạn người. Đây là một chiến công trong xây dựng quân đội sau giai đoạn trì trệ kéo dài của các vua cuối triều Lý. Trước thế mạnh của giặc, vua tôi nhà Trần phải rút khỏi Thăng Long. Khi ấy không phải không có đại thần toan đầu hàng. Sử cũ chép rằng, vua Thái Tông ngự thuyền đến hỏi Thái úy Trần Nhật Hiệu, vị quan này không trả lời mà cầm sào viết xuống nước hai chữ “Nhập Tống”. Sau đó, khi Thái Tông đến hỏi Thái sư Trần Thủ Độ, thì Thủ Độ trả lời “Đầu tôi chưa rơi xuống đất, thì xin Bệ hạ đừng lo”. Câu nói này đã cho thấy được tinh thần yêu nước đáng trân trọng của Trần Thủ Độ, vì nếu ông chỉ là người hám quyền hám danh thì đã không có cái chí khí kiên cường đến thế!Đại Việt Sử Ký Toàn Thư nhà Hậu Lê còn chép lại nhiều mẫu chuyện về đức độ làm quan của Trần Thủ Độ - Thấy Thủ Độ quyền át cả vua, có kẻ ngầm vào gặp Vua Thái Tông mà nói rằng “Bệ hạ còn thơ ấu, mà Thủ Độ quyền át cả vua, xã tắc rồi sẽ ra sao?”. Thái Tông bèn cho bắt người đó giải đến phủ Thủ Độ. Sau khi nghe chuyện, Thủ Độ đáp “Quả đúng như lời hắn nói”. Xong, đem tiền lụa mà thưởng cho người Linh Từ Quốc Mẫu Trần Thị Dung khi là vợ của Trần Thủ Độ, một hôm ngồi kiệu đi qua thềm cấm, bị quân hiệu ngăn lại, về dinh khóc với Thủ Độ. Ông tức giận sai người đi bắt người quân hiệu kia. Người quân hiệu thất kinh và tưởng thế nào cũng chết. Nhưng khi đến trình bảo mọi điều với Thủ Độ, thì Thủ Độ lại khen ngợi người lính hiệu đã biết giữ đúng phép nước và ban thưởng Có lần, bà Trần Thị Dung xin với Thủ Độ cho một người được làm câu đương. Thủ Độ nhận lời. Khi gặp người ấy, ông bảo “Người vì có công chúa xin cho được làm câu đương, không ví như những câu đương khác được, phải chặt một ngón chân để phân biệt”. Người nọ hoảng hồn khóc lóc van xin mãi mới được tha và không dám xin chức câu đương nữa. Từ đó không ai dám đến thăm Thủ Độ vì việc riêng Có lần Thái Tông muốn cho người anh ruột của Thủ Độ là An Quốc làm tể tướng. Thủ Độ bèn tâu An Quốc là anh thần, nếu giỏi hơn thần thì thần xin rút lui, còn nếu cho thần giỏi hơn An Quốc thì không thể cử An Quốc, nếu anh em đều làm tể tướng cả thì việc triều đình sẽ ra sao? Vua nghe nói vậy mới đó, ta thấy rằng Trần Thủ Độ rõ ràng là một vị quan gương mẫu xưa nay hiếm, một người “vĩ công vi thượng”. Sử gia Nguyễn Khắc Thuần trong bộ Việt Sử Giai Thoại đã nhận định “Chính quyền nhà Trần là chính quyền của quý tộc họ Trần. Chính quyền ấy cho phép con em quý tộc được quyền sống dựa vào uy danh và bổng lộc của cha ông. Song, đọc chuyện Trần Thủ Độ, ai dám bảo con cháu ông sẽ dựa hơi ông để ức hiếp người đời!”Đại Việt Sử Ký Toàn Thư nhà Hậu Lê nhìn nhận Thủ Độ tuy không có học vấn nhưng tài hơn người, làm quan triều Lý được mọi người suy tôn. Thái Tôn lấy được thiên hạ đều nhờ vào mưu sức của ông cả …Thủ Độ tuy làm tể tướng, nhưng mọi việc không việc gì không để ý. Vì thế đã giúp nên vương nghiệp và giữ được tiếng tốt cho đến lúc mất. Thái Tông có làm bài văn bia ở sinh từ để tỏ lòng đặc biệt quý mến ông. Thế nhưng cái tội giết vua và thông dâm với hoàng hậu thì khó lẩn tránh với đời sau vậy”. Khâm Định Triều Nguyễn cũng cho rằng “…những việc giết vua triều trước và thông dâm với vợ vua, việc gì Thủ Độ cũng nhẫn tâm làm cả. Như thế Thủ Độ là bầy tôi có công với triều Trần, mà là người có tội với triều Lý”. Sử gia Trần Trọng Kim cho rằng “Thủ Độ là một người rất gian ác đối với nhà Lý, nhưng lại là một đại công thần của nhà Trần”.Đến đây, ta thấy rằng, việc các sử gia khen và chê Trần Thủ Độ tựu chung có hai điểm- Chê việc ông đã soán ngôi nhà Lý và còn độc ác tận diệt người họ Lý, chê vì ông đã bất chấp luân thường để thay đổi gán ghép hôn nhân của người trong gia tộc họ Khen ông là một người lãnh đạo có tài và hết lòng vì ràng, ta thấy rằng, tất cả những việc Trần Thủ Độ làm bên trên là vì dòng tộc họ Trần, vì để củng cố triều Trần. Như vậy đối với dòng tộc họ Trần ông là người có công. Sau khi dựng nên nhà Trần, Thủ Độ tay nắm đại quyền đã vực dậy đất nước sau giai đoạn suy tàn thời mạc Lý, để làm tiền đề cho nước Việt đủ sức đương đầu và ba lần đánh lui quân xâm lược Nguyên-Mông, một đội quân chinh phạt mà trước đó đã “làm cỏ” khắp Á Âu. Như vậy, đối với non sông, Thủ Độ cũng lập đại điểm cần lưu ý nữa là, chúng ta không thể không công nhận vai trò của Trần Thủ Độ đối với Trần Quốc Tuấn. Nên nhớ rằng, Trần Thủ Độ nắm đại quyền đến năm 1264, và trong cuộc xâm lược lần thứ nhất của quân Nguyên-Mông vào năm 1258, Trần Quốc Tuấn cũng đã có tham gia dưới sự chỉ huy của Trần Thủ Độ, và khi ấy Trần Quốc Tuấn chỉ mới 30 tuổi còn Trần Thủ Độ đã 64 tuổi. Hơn nữa Trần Thủ Độ lại là chú họ của Trần Quốc Tuấn. Không thể nói rằng, cái tinh thần vì sự đoàn kết của họ tộc Trần và vì nước vì dân của Trần Hưng Đạo sau này không có ảnh hưởng của Trần Thủ luận anh hùngĐương nhiên, sự phê phán của các sử gia Nho Giáo ngày xưa là gay gắt bởi nếu đứng trên lập trường Nho Giáo, thì rõ ràng việc soán ngôi nhà Lý của Trần Thủ Độ là trái đạo luân thường. Thế nhưng, cũng nên nhớ rằng, dưới các triều đại phong kiến Việt Nam, Nho Giáo được khai thác ở những điểm cực đoan nhất nhằm phục vụ cho việc củng cố nhà nước phong kiến. Cái tinh thần trung quân khi ấy đã được đẩy lên mức cực đoan, đến mức mà người ta chỉ thấy vua mà không thấy nước, chỉ biết trung với vua mà không biết trung với nước. Trong khi mà Nho Giáo không hề ca ngợi cái “ngu trung”. Á Thánh Mạnh Tử còn nói rằng “Quân chi thị thần như thủ túc, tắc thần thị quân như phúc tâm. Quân chi thị thần như khuyển mã, tắc thần thị quân như quốc nhân. Quân chi thị thần như thổ giới, tắc thần thị quân như khấu thù” Vua xem bầy tôi như tay chân thì bầy tôi xem vua như máu thịt, vua xem bầy tôi như chó ngựa thì bầy tôi xem vua như người lạ trong nước vậy thôi, vua xem bầy tôi như đất cỏ thì bầy tôi xem vua như giặc thù. Nói như vậy thì chữ trung có giới hạn chứ không phải vua thế nào thì bầy tôi cũng phải trung. Bởi vì, Mạnh Tử nói “Dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” Trước có dân sau mới tới nước, rồi mới tới vua. Thế thì dân và lợi ích của dân vẫn là trọng lại trường hợp của Trần Thủ Độ, đặt giả thuyết ông không soán ngôi nhà Lý mà tiếp tục “ngu trung”, thì với cái thế suy vi của nhà Lý lúc bấy giờ liệu nước Việt có thể giữ được chủ quyền quốc gia hay không, chứ chưa nói đến chuyện có thể đánh bại quân xâm lược Nguyên-Mông? Sau hơn bảy thế kỷ nhìn lại, đứng trên phương diện lợi ích quốc gia, ta thấy rằng, Trần Thủ Độ thật sự là người có công với xã tắc. Trường hợp của Trần Thủ Độ cũng là một lời nhắc nhở các thế hệ khi nhận xét đánh giá về bất kỳ một nhân vật lịch sử nào, đó là không nên đánh giá chỉ dựa vào tiểu tiết mà xem nhẹ những đóng góp lớn lao cho đại cuộc.
Trong sách Lịch triều hiến chương loại chí, phần Nhân vật chí, Phan Huy Chú xếp Trần Hưng Đạo đứng thứ nhất trong bốn “tướng có tiếng và tài giỏi” đời Trần trên Trần Nhật Duật, Phạm Ngũ Lão và Trần Khánh Dư. Cùng với đó là lời cẩn án “Danh tướng nhà Trần như Hưng Đạo vương không mấy đời có; kiêm cả văn võ, thừa chí dũng, dựng nên công lao sự nghiệp kỳ vĩ mà giữ vững trung nghĩa… Ông không những là anh hùng của một thời đại mà cho đến các bậc tướng thần cổ kim cũng ít ai bì kịp”1. Trong những ghi chép có phần vắn tắt, nhà sử học TK XIX còn không ít lần tỏ lòng ngưỡng mộ và ngợi ca mối quan hệ tốt đẹp cũng như tấm lòng trung thành trước sau như một của Trần Quốc Tuấn với các vua nhà Trần. Trước đó gần nửa thế kỷ, sử thần Ngô Thì Sỹ cũng đánh giá Hưng Đạo vương có “lòng trung thành thấu đến mặt trời, mặt trăng; khí tiết động đến quỷ thần”, “thật đáng làm gương hàng trăm đời cho những người làm bề tôi”2. Trong lịch sử Việt Nam, đó là một chuẩn mực và mẫu mực của mối quan hệ vua tôi. Tháng 6 năm Canh Tý, niên hiệu Hưng Long thứ 8 1300, tức hai tháng trước khi qua đời, Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn lâm trọng bệnh. Vua Trần Anh Tông thân hành về phủ đệ của vương ở Vạn Kiếp. Đến bên giường bệnh, lo lắng hỏi thăm tình hình sức khỏe, nhà vua đồng thời tranh thủ ý kiến Trần Quốc Tuấn về kế sách ngừa giặc, giữ nước. Hưng Đạo vương tổng kết kinh nghiệm và bài học lịch sử kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc, nhấn mạnh nguyên nhân thắng lợi của nhà Trần trong ba lần kháng chiến chống xâm lược Nguyên – Mông là bởi đã phát huy cao độ sức mạnh của “vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, nước nhà góp sức”. Lời di chúc ngắn gọn, nhưng súc tích, mang tính khái quát rất cao. Đó không chỉ là tâm huyết, trí lực của một nguyên lão trọng thần gắn bó cả cuộc đời với thời kỳ gian nan nhất nhưng cũng huy hoàng nhất của vương triều; mà còn là kinh nghiệm tổng kết nghệ thuật quân sự của vị đại tướng ba lần gánh trọng trách tổng chỉ huy quân đội cả nước đánh giặc, giữ nước. Suy rộng ra, đó còn là tư tưởng, đường lối chính trị của vương triều Trần. Cội nguồn sức mạnh, nguyên nhân của mọi thành công nhà Trần có được là bởi triều đại này đã xây dựng được một nền tảng chính trị vững chắc dựa trên ba yếu tố chính sách khoan hòa, thân dân; chính quyền vững mạnh, đoàn kết; và tinh thần gắn kết, nhất trí cao độ trong dòng họ Trần. Thật vậy, tư tưởng bao trùm trong đường lối trị nước của triều Trần là thân dân. Thiết chế tập quyền thân dân thời Trần thực chất là sự kế thừa, phát huy tinh thần của triều Lý, nhưng mang những màu sắc riêng, mới của thời đại. Và cũng không phải đợi đến khi Trần Hưng Đạo di chúc phải “khoan thư sức dân để lấy làm kế sâu rễ bền gốc”, nhà Trần mới thấm nhuần triết lý dĩ nông vi bản. Còn nhớ, ngay từ thưở mới kiến lập vương triều, Trần Thái Tông đã rất tâm đắc lời của quốc sư Trúc Lâm “Phàm là kẻ làm vua thì phải lấy ý muốn của dân làm ý muốn của mình, phải lấy tấm lòng của dân làm tấm lòng của mình”. Vì vậy, ngai vàng quyền lực, ông “xem như chiếc giày rách, bỏ đi lúc nào cùng được”. Các vị vua về sau, từ những chính sách, pháp luật đến cách hành xử, các lời nói, việc làm cụ thể đều phản ánh tấm lòng yêu dân, coi trọng lê dân bách tính. Sử cũ chép rằng, một lần nọ, khi cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông lần thứ nhất 1258 vào hồi gian nguy nhất, nhà vua muốn biết tình hình quân giặc đã truyền hỏi “Quân Nguyên ở đâu?”. Lão đánh cá đang xuôi thuyền sông Hồng, tên Hoàng Cự Đà, vốn là hầu cận của vua, ngang nhiên trả lời “Không biết, các ngươi đi mà hỏi những ai ăn xoài ấy”. Trước thái độ khi quân của Cự Đà, vua Trần không những không xử tội, mà còn tự trách mình vì đã đối xử không công bằng với những người dưới3. Chính quyền nhà nước thời Trần là sự kết hợp chặt chẽ giữa tầng lớp quý tộc tôn thất và đội ngũ quan liêu đang dần lớn mạnh. Khôn khéo và chính xác trong thuật dùng người, thưởng phạt công bằng, nghiêm minh và phát huy cao độ tinh thần đoàn kết, nhất trí trong hàng ngũ quan lại chính là những yếu tố quan trọng giúp triều Trần tạo nên sức mạnh của cả bộ máy chính quyền. Điều này được phản ánh bằng nhiều câu chuyện sinh động chép trong sử cũ Một lần, có kẻ đàn hặc Trần Thủ Độ, trước mặt nhà vua khóc mà rằng “Bệ hạ còn thơ ấu mà Thủ Độ thì quyền át cả vua, xã tắc rồi sẽ ra sao?”. Trần Thái Tông tức tốc tới tư dinh Trần Thủ Độ, mang theo cả người đàn hặc và kể hết mọi chuyện với Thái sư. Trần Thủ Độ trả lời “Đúng như những lời hắn nói”. Rồi mang tiền lụa thưởng cho người ấy. Lần khác, Linh từ quốc mẫu ngồi kiệu đi qua thềm cấm, bị quân lính ngăn lại, về dinh khóc nói với Trần Thủ Độ “Mụ này làm vợ ông, mà bị bọn quân hiệu khinh nhờn đến thế”. Thủ Độ tức giận, sai người đi bắt tên lính. Người ấy nghĩ rằng mình chắc phải chết. Đến nơi, khi bị tra hỏi, người lính cứ theo sự thực trả lời. Trần Thủ Độ nói “Ngươi ở chức thấp mà giữ được luật pháp, ta còn trách gì nữa”. Bèn lấy vàng lụa thưởng, cho về. Thái Tông có lần muốn lập anh của Trần Thủ Độ là An Quốc làm Tể tướng. Thủ Độ biết việc mới tâu rằng “An Quốc là anh thần, nếu cho giỏi hơn thần thì thần xin trí sĩ, nếu cho thần giỏi hơn An Quốc thì không thể cử An Quốc. Nếu anh em đều làm tể tướng cả thì việc triều đình sẽ ra làm sao?”. Vua vì thế, bèn thôi4… Đánh giá về thuật dùng người của nhà Trần, sử thần Ngô Sỹ Liên TK XV nhận xét “Tôi từng thấy các danh tướng nhà Trần như Hưng Đạo vương thì học vấn tỏ ra ở bài hịch, Phạm điện súy Phạm Ngũ Lão – TG thì học vấn biểu hiện ở câu thơ, không chỉ có chuyên về nghề võ. Thế mà dùng binh tinh diệu, hễ đánh là thắng, đã tấn công là chiếm được, người xưa cũng không một ai vượt nổi các ông. Lê Phụ Trần thì dũng lược đứng đầu ba quân, một mình một ngựa xông pha trong trận giặc, tùy cơ ứng biến, chống đỡ cho chúa trong lúc gian nguy, mà tài văn học của ông đủ để dạy bảo thái tử. Đủ biết, nhà Trần dùng người, vốn căn cứ vào tài năng của họ để trao trách nhiệm…”5. Lê Quý Đôn cũng bình luận “Nhà Trần đãi ngộ sĩ phu rộng rãi mà không bó buộc, hòa nhã mà có lễ độ, cho nên nhân vật trong một thời có chí khí tự lập, hào hiệp cao siêu, vững vàng vượt ra ngoài thói thường, làm rạng rỡ cho sử sách, trên không hổ với trời, dưới không thẹn với đất”6. Xây dựng khối đoàn kết, thống nhất ý chí trong tôn thất thực sự là một tư tưởng lớn, một chính sách đặc trưng của vương triều Trần. Bản thân các thành viên trong tộc Trần cũng luôn ý thức sâu sắc về những lợi ích chung, vì sự vững bền của cơ nghiệp nhà Trần. Vua Trần Thánh Tông 1258-1278 từng nói với người trong họ rằng “Thiên hạ là thiên hạ của tổ tông, người nối nghiệp của tổ tông phải cùng hưởng phú quý với anh em trong họ. Tuy bên ngoài có một người ở ngôi tôn, được cả thiên hạ phụng sự, nhưng bên trong thì ta với các khanh là đồng bào ruột thịt. Lo thì cùng lo, vui thì cùng vui. Các khanh nên truyền những lời này cho con cháu để chúng đừng bao giờ quên, thì đó là phúc muôn năm của tông miếu xã tắc”. Vua hạ chiếu cho các vương hầu tôn thất “khi bãi triều thì vào trong điện và lan đình. Vua cùng ăn uống với họ. Hôm nào trời tối không về được thì xếp gối dài, trải chăn rộng, kê giường liền cùng ngủ với nhau để tỏ hết lòng yêu quý nhau… Các vương hầu thời ấy không ai là không hòa thuận, kính sợ và cũng không phạm lỗi khinh nhờn, kiêu căng”7. Nhà Trần luôn ý thức rõ ràng trong việc xây dựng, không ngừng củng cố một tập đoàn dòng họ vững mạnh. Tuy nhiên, trong khối thống nhất ấy, giữa các cá nhân, không tránh khỏi những hiềm khích, hiểu lầm, thậm chí là mâu thuẫn. Điều đáng lưu ý, dường như không ít những khúc mắc, đều ít nhiều liên quan đến Trần Hưng Đạo. Chủ yếu, ông là nạn nhân, phải gánh chịu và giải quyết. Khi vừa tròn 20 tuổi, năm Tân Hợi 1251, Trần Quốc Tuấn chịu cái tang mất cha. Trong lúc hấp hối, An Sinh vương Trần Liễu gọi Quốc Tuấn đến bên trăng trối rằng “Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được”. Mâu thuẫn giữa gia đình An Sinh vương với bên dòng vua Trần bắt đầu từ khi vương triều mới được kiến lập. Trần Cảnh khi ấy mới 8 tuổi, được chú họ là Trần Thủ Độ chọn đưa lên ngôi, không phải anh là Trần Liễu, lúc đó đã 15 tuổi. Sau khi làm vua, vì Trần Cảnh không có con, Thủ Độ ép lấy công chúa Thuận Thiên, vợ Trần Liễu, khi ấy đang mang thai. Khởi binh mà không giành lại được vợ con, tuy được tha chết song lại bị đầy ra Đông Triều, Trần Liễu trong lòng càng vô cùng căm giận. Ông quyết chí phục thù bằng cách dốc sức đào tạo, tìm khắp thiên hạ “những người tài nghệ để dạy Quốc Tuấn”. Trần Quốc Tuấn vốn “dung mạo khôi ngô, thông minh hơn người, đọc rộng các sách, có tài văn võ”, càng khiến Trần Liễu yên tâm nhắm mắt vì đã tìm được người ủy thác. Năm Bính Thìn 1256, Vũ Thành vương Doãn – anh trai Trần Quốc Tuấn, vì những bất bình trong gia tộc có lẽ chủ yếu vẫn là giữa các con của Trần Liễu với dòng vua, thấy thất thế sau khi mẹ là Hiển từ Hoàng hậu vợ Thái Tông Trần Cảnh qua đời, đã mang theo vợ con trốn sang nước Tống, nhưng bị viên thổ quan phủ Tư Minh bắt đưa trả lại. Mối hiềm khích hai bên không những không được hóa giải, mà trong mắt các vua Trần và triều đình, thái độ chống đối của dòng máu An Sinh vương Trần Liễu càng trở nên rõ ràng. Tiếp đó, trong cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông lần thứ hai 1285, Thượng vị Chương Hiến hầu Trần Kiện – con thứ của Tĩnh Quốc Đại vương Trần Quốc Khang thực chất là em ruột của Trần Quốc Tuấn, đã cùng với liêu thuộc là Lê Tắc đem cả nhà và quân lính đầu hàng giặc Nguyên. Dù Trần Kiện sau đó đã bị gia nô của Trần Hưng Đạo bắn chết, nhưng sự chống đối của con cháu Trần Liễu một lần nữa khiến vua Trần phải nghi ngại, dè chừng. Bản thân Trần Quốc Tuấn cũng có những lúc không bằng lòng với các hoàng tử nhà Trần, tiêu biểu là với Trần Quang Khải. Hiềm khích đó càng trở nên khó giải quyết, khi cả hai đều là những đại thần đầu triều. Một người là Quốc công Tiết chế, chỉ huy cao nhất lực lượng quân đội toàn quốc; còn người kia là Thượng tướng Thái sư, đứng đầu đội ngũ quan lại triều đình. Nhưng cái cách mà Trần Hưng Đạo hóa giải mọi mâu thuẫn, như cách nhìn nhận của sử cũ, là “vượt trên thói thường”. Với Trần Quang Khải, Hưng Đạo vương dù là anh thuộc ngành trên, lại hơn tuổi, nhưng đã chủ động hòa giải hiểu lầm bằng một hành động rất thân tình – cởi áo, tắm cho em. Quốc Tuấn vừa tắm vừa vui vẻ nói “Hôm nay được tắm cho Thượng tướng”. Quang Khải cũng đáp “Hôm nay được Quốc công tắm rửa cho”. Từ đó, tình nghĩa giữa hai người ngày càng thêm thắm thiết. Lời di huấn phút lâm chung của cha, Trần Quốc Tuấn ghi nhớ trong lòng nhưng không cho là phải, và cũng không làm theo. Giữa thù nhà và trách nhiệm với giang sơn xã tắc, với cơ nghiệp nhà Trần, ông đã đặt chữ trung trên tất thảy. Đến khi vận nước lung lay, quyền quân quyền nước đều trong tay, Hưng Đạo vương mới đem lời dặn của An Sinh vương nói lại với gia nô và các con trai của mình. Thái độ kiên quyết phản đối của Yết Kiêu và Dã Tượng, hợp với ý ông, khiến ông cảm động phát khóc và hết lời khen ngợi lòng trung tín của hai gia thần. Khi hỏi con trai cả là Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn, Quốc Nghiễn trả lời “Dẫu khác họ cũng không nên, huống chi là cùng một họ!”. Trần Quốc Tuấn khen là phải. Ngược lại, ông đã vô cùng tức giận trước câu trả lời có ý phản nghịch của người con trai thứ là Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng. Ông tuốt gươm quát mắng “Tên loạn thần là từ đứa con bất hiếu mà ra”, rồi toan giết Quốc Tảng, may nhờ Hưng Vũ vương van xin, ông mới tha tội cho. Ông dặn Hưng Vũ vương “Sau khi ta chết, đậy nắp quan tài đã rồi mới cho Quốc Tảng vào viếng”8. Cũng vì những lời lẽ gay gắt đó, Trần Quốc Tảng sau này không dám sinh lòng khác, lại hết lòng theo cha đánh giặc, lập nhiều chiến công, được phong đến tước Đại vương. Con trai Quốc Tảng là Trần Quang Triều được phong Văn Huệ vương, con gái làm Hoàng hậu của vua Trần Anh Tông… Đó là cách Trần Quốc Tuấn nghiêm khắc dạy con, dạy cháu; cũng là thái độ kiên quyết của ông trước mọi ý đồ và hành động bất trung, bất nghĩa. Từ tư tưởng, tới cách hành xử và giải quyết các mâu thuẫn trong gia đình, họ tộc, tất thảy đều khắc họa rõ nét khí tiết Trần Quốc Tuấn – một tấm lòng trung nghĩa, một nhân cách cao thượng. Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn là một cố mệnh đại thần trải bốn triều vua Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông và Anh Tông. Trong quan hệ thân tộc, với các vua Trần, dù là cháu – con rể Thái Tông, là anh họ Thánh Tông, hay là bác – bố vợ Nhân Tông, là ông Anh Tông, Trần Quốc Tuấn đều hết mực trung thành, kính cẩn, thận trọng trong từng cử chỉ, lời nói, việc làm; luôn đúng mực giữ đạo phép vua tôi. Vì có công lao lớn, vua Trần Thánh Tông trao cho Trần Hưng Đạo quyền được phong chức từ tước minh tự trở xuống, tước hầu thì phong trước tâu sau. Nhưng cả cuộc đời, chưa ông bao giờ dùng quyền ấy để phong cho một ai. Chỉ trừ gặp lúc chiến tranh cấp bách, ông phong Lang tướng giả không phải Lang tướng thực cho nhà giàu đã nộp thóc làm quân lương. Trong cả ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên – Mông, Trần Quốc Tuấn luôn túc trực bên các vua Trần. Vì ông là người nắm binh quyền, lại sẵn mối hiềm cũ, khiến không ít người nghi ngại. Với một nhãn quan rất tinh tế, ông chủ động bỏ đầu bịt sắt nhọn, chỉ dùng gậy không mỗi khi đi cạnh vua. Hành động này được sử thần Ngô Sĩ Liên bình luận “Bậc đại thần ở vào hoàn cảnh bị hiềm nghi nguy hiểm, tất phải thành thực tin nhau, sáng suốt khéo xử… mới có thể giữ tròn danh dự, làm nên sự nghiệp. Nếu không thế thì nhất định sẽ mang tai họa. Quách Tử Nghi nhà Đường, Trần Quốc Tuấn nhà Trần đã làm được như vậy”9. Khi vua Thánh Tông đi đánh giặc, Trần Quang Khải theo hầu, bỏ không chức Tể tướng, lại đúng lúc có sứ phương Bắc đến. Thượng hoàng Thái Tông gọi Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đến bảo “Thượng tướng đi theo hầu vắng, trẫm định lấy khanh làm Tư đồ để tiếp sứ phương Bắc”. Quốc Tuấn trả lời “Việc tiếp sứ giả, thần không dám từ chối, còn như phong thần làm Tư đồ thì thần không dám vâng chiếu. Huống chi Quan gia đi đánh giặc xa, Quang Khải theo hầu mà bệ hạ lại tự ý phong chức, thì tình nghĩa trên dưới, e có chỗ chưa ổn, sẽ không làm vui lòng Quan gia và Quang Khải. Đợi khi xa giá trở về, sẽ xin vâng mệnh cũng chưa muộn”10. Ngược lại, các vua Trần đều rất mực yêu mến, tin tưởng và kính trọng Trần Quốc Tuấn. Tháng 9 năm Thiệu Phong thứ 7 1257, quân Nguyên xâm phạm cương giới. Vua Trần Thái Tông ban chiếu, lệnh cho Trần Quốc Tuấn, khi ấy mới tròn 27 tuổi, thống lĩnh các tướng đem quân thủy bộ ra biên ải chặn giặc. Trong cuộc kháng chiến lần hai 1285 và lần ba 1288, Hưng Đạo vương đều được phong Quốc công tiết chế, thống lĩnh toàn bộ lực lượng quân đội cả nước đánh giặc. Cả ba lần, ông đều không phụ sự ủy thác của vua Trần và sự trông mong của triều đình, quân dân Đại Việt. Mỗi lúc vận nước gian nguy, các vua Trần đều hỏi ý kiến Hưng Đạo vương với một thái độ rất ân cần, trọng thị. Trước kẻ thù là giặc Nguyên – Mông hùng mạnh, được nghe câu trả lời của vương “Phá được chúng là điều chắc chắn”, “năm nay đánh giặc nhàn”, hay “nếu bệ hạ muốn hàng, xin hãy chém đầu thần trước”, các vua Trần càng vững dạ yên lòng, củng cố quyết tâm đánh giặc và thắng giặc. Sau khi đánh giặc thắng lợi, năm 1289, vua Trần tiến phong Trần Quốc Tuấn tước Đại vương, con cả Hưng Vũ vương Quốc Nghiễn làm Khai quốc công, con thứ Hưng Nhượng vương Quốc Tảng làm Tiết độ sứ. Đó là cách tưởng thưởng xứng đáng của vua Trần cho những công lao to lớn của cả gia đình Hưng Đạo vương. Khi biết tin vương lâm bệnh nặng, cả thượng hoàng và vua Trần đều về tận phủ đệ ở Vạn Kiếp, ân cần hỏi han sức khỏe. Ngày 20 tháng 8 năm Canh Tý tức ngày 3-9-1300, Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn qua đời, thọ 70 tuổi. Cả nước khóc thương vô hạn. Vua Anh Tông cho bãi triều 10 ngày, cùng Thượng hoàng Nhân Tông đích thân về dự lễ tang, kính tế an ủi và xuống chiếu ban cho vương tước phẩm tột cùng Thái sư Thượng phụ Thượng Quốc công Nhân Vũ Hưng Đạo Đại vương, và cho lập miếu thờ. Thượng hoàng Trần Thánh Tông lúc sinh thời từng ngự chế bài văn bia đặt ở sinh từ của Đại vương, tôn ông là bậc thượng vụ, sánh tựa công lao kỳ vĩ của Thái Công Vọng khi xưa giúp Vũ vương nhà Chu. Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn là một anh hùng dân tộc, thiên tài quân sự, nhà chính trị – văn hóa lớn của lịch sử Việt Nam. Nhưng nhắc tới Trần Quốc Tuấn, trước hết là nhắc tới một nhân cách vĩ đại. Nói như Phan Bội Châu, Hưng Đạo vương “lập được công lớn, dẹp yên được giặc mạnh”, trở thành “người anh hùng bậc nhất chống ngoại xâm” là “nhờ có ba điều” “thứ nhất là lòng nhiệt thành”, “thứ hai là có kiến thức cao” và “thứ ba là nhân cách cao thượng”11. Giữa ông với các vua Trần luôn duy trì những mối quan hệ tốt đẹp, thủy chung như nhất. Đó có thể được coi là ví dụ điển hình, biểu trưng cho tinh thần hòa đồng, gắn kết trong dòng tộc nhà Trần; cũng là cội nguồn sức mạnh của hào khí Đông A, tạo nên những thành tựu rực rỡ về võ công, văn trị một thời. Xin được dẫn lời của Bắc kỳ Kinh lược đại sứ Hoàng Cao Khải, khắc trong bia văn đền Vạn Kiếp để ca ngợi khí tiết và sự nghiệp cái thế của Đức thánh Trần “Với nhà Trần, vương Trần Hưng Đạo – TG là người tin cậy giữ thành, giữ nước, gửi trọng trách nơi triều đình, được mọi người quy phụ, chư tướng dốc lòng. Giả sử nghe lời di huấn của cha, vua nhỏ dễ lộng quyền, hoặc thay rèm đổi ngôi, hoặc đổi ấn xưng vương… Ngài thì đang khi nguy cấp lại an nhàn chấn chỉnh, ngôi vị cực tôn lại xử sự khiêm nhường, cầm dao kể tội con hư, bỏ đầu nhọn theo hầu xa giá. Môn hạ không gây bè đảng, xã tắc phúc bởi điều hòa. Vì thế mà vén trời vạch đất, là vĩ nhân của muôn đời. Xuất quỷ nhập thần, là hạo nhiên chính khí giữa khoảng trời đất”12. ________________ 1. Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, tập I, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2006, 2. Ngô Thì Sỹ, Đại Việt sử ký tiền biên, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1997, 3, 4, 5, 7, 8, 9, 10. Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê, Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993, 34, 106, 37, 80, 54, 72. 6. Lê Quý Đôn, Kiến văn tiểu lục, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1977, 11. Phan Bội Châu, Toàn tập, tập 2, Nxb Thuận Hóa, Huế, 1990, 12. Hưng Đạo vương từ bi ký, in trong Di sản Hán Nôm Côn Sơn – Kiếp Bạc – Phượng Sơn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, Nguồn Tạp chí VHNT số 339, tháng 9-2012 Tác giả Phạm Đức Anh
trần thủ độ và trần hưng đạo